Bất hạnh qua đời Đôn_Túc_Hoàng_quý_phi

Tấn phong Hoàng quý phi

Năm Ung Chính thứ 3 (1725), tháng 11 (âm lịch), Quý phi Niên thị lâm bệnh nặng. Ngay khi đó, Ung Chính Đế phải đi Cảnh lăng tế bái, Quý phi không thể đi theo. Chỉ sau mấy ngày, Hoàng đế lặn lội đường xa, hồi loan kinh thành, chuẩn bị Đông chí tế thiên đại điển, bên cạnh đó rất quan tâm bệnh tình của Quý phi.

Ngày 15 tháng 11 (âm lịch) cùng năm, Ung Chính Đế ra chỉ tấn phong Quý phi Niên thị làm Hoàng quý phi[8][9]. Hoàng đế dụ Nội các như sau:

  • [贵妃年氏,秉性柔嘉,持躬淑慎。朕在藩邸时,事圳克尽敬慎,在皇后前小心恭谨,驭下宽厚平和。皇考嘉其端庄贵重封为亲王侧妃。朕在即位后,贵妃于皇考,皇妣大事悉皆尽心力尽礼,实能赞襄内政。妃素病弱,三年以来朕办理机务,宵旰不遑,未及留心商确诊治,凡方药之事悉付医家,以致耽延日久。目今渐次沉重,朕心深为轸念。贵妃着封为皇贵妃,倘事一出,一切礼仪俱照皇贵妃行。]
  • Quý phi Niên thị, bỉnh tính nhu gia, trì cung thục thận. Khi Trẫm còn ở Phiên để, hành sự cung kính và thận trọng, trước mặt Hoàng hậu luôn cung cẩn thuận theo, đối với kẻ dưới luôn khoan hạ đôn hậu. Hoàng khảo thấy này đoan trang cẩn thận, nên mới ban phong làm Thân vương Trắc phi. Sau khi Trẫm lên ngôi, Quý phi đối với đại sự của Hoàng khảo cùng Hoàng tỉ[10] rất tận tâm và hiếu lễ, quả thật đáng làm gương chốn Nội chính. Vốn Phi có bệnh, ba năm nay Trẫm lại luôn bận cơ vụ, ngày đêm đều không rảnh rỗi, (nàng) không tiện lưu tâm bồi dưỡng chuẩn xác, mọi chuyện thuốc men đều giao phó Ngự y, nhưng cũng không có cải thiện. Trước mắt bệnh đã chuyển biến trầm trọng, Trẫm thật sự đau xót. Quý phi nên tấn phong làm Hoàng quý phi. Những việc bày biện, lễ nghi đều nên án theo lệ cũ của Hoàng quý phi mà làm.

Ngày 18 tháng ấy, giao tế phủ nhất kết thúc, Ung Chính Đế miễn triều hạ ở Thái Hòa điện, tức tốc phi xe ngựa về Viên Minh Viên. Kế tiếp liên tiếp 5 ngày, trừ ngày 19 phát chỉ dụ các quan tỉnh và miễn thuế 4 huyện Giang Nam, còn lại cứ theo ghi chép trong Khởi cư chú (起居注), không nhìn thấy bất kì việc công văn nào mà Ung Chính Đế xử lý, điều này có nghĩa ông đã dành trọn thời gian quan tâm bệnh tình của Hoàng quý phi.

An táng trọng thể

Ngày 23 tháng 11 (âm lịch), Hoàng quý phi Niên thị hoăng thệ tại Viên Minh Viên, thụy hiệuĐôn Túc Hoàng quý phi (敦肅皇貴妃)[11].

Trong lịch sử nhà Thanh, không tính Đổng Ngạc Hoàng quý phi của Thuận Trị Đế đã truy phong làm Hoàng hậu, thì Niên thị là Hoàng quý phi đầu tiên qua đời với tư cách Hoàng quý phi. Cũng vì lẽ đó, tang lễ của bà trở thành điển phạm cho tất cả tang lễ của các Hoàng quý phi về sau. Ngày Đôn Túc Hoàng quý phi mất, Ung Chính Hoàng đế nghỉ triều 5 ngày, cử hành đại lễ an táng Hoàng quý phi, đây là tang lễ chính thức dành cho một Hoàng quý phi của nhà Thanh. Trong lúc làm tang nghi, Ung Chính Đế thương cảm không thôi.

Khi đó, Thành Thân vương Dận Chỉ, Liêm Thân vương Dận Tự cùng Phụng ân Tướng quân trở lên, lãnh đạo Công - Hầu - Bá đến quan viên hàng Tứ phẩm trở lên, đều có mặt đầy đủ trong 3 ngày khóc tang. Đến nỗi Lễ bộ quan viên do là lần đầu có tang nghi Hoàng quý phi, đã bị liệt kê tội "Nghi thức qua loa", bị xử phạt cách chức hoặc giáng bậc 2 cấp[12][13]. Tang lễ của bà cùng lễ sách thụy, dâng cáo Thái Miếu hậu điện, Phụng Tiên điện thế nào, về sau đều trở thành lệ trong tang nghi và truy tặng của Tuệ Hiền Hoàng quý phiTriết Mẫn Hoàng quý phi[14]. Vì lý do gặp tang nghi của Đôn Túc Hoàng quý phi, Ung Chính Đế còn ra chỉ dụ tạm hoãn phiên xử Niên Canh Nghiêu.

Những người con do Đôn Túc Hoàng quý phi đích thân hạ sinh, chỉ có Phúc Huệ là sống lâu nhất. Ung Chính Đế tư niệm đó là cốt nhục duy nhất của Niên thị nên cũng có sủng ái. Nhưng ở năm Ung Chính thứ 6 (1728), Phúc Huệ cũng bất hạnh quy thiên, Ung Chính Đế vì thương mà đặc cách dùng lễ táng Thân vương. Đến thời Càn Long, Hoàng đế từng nói về Phúc Huệ: [“Dụ, Trẫm huynh Đại a ca, nãi Hoàng tỷ Hiếu Kính Hoàng hậu sở sinh, Trẫm đệ Bát A ca, tố vì Hoàng khảo sở chung ái, đương nhật tằng dĩ Thân vương cải táng; 谕、朕兄大阿哥。乃皇妣孝敬皇后所生。朕弟八阿哥。素为皇考所钟爱当日曾以亲王殡葬][15], chứng minh việc Ung Chính Đế yêu quý Phúc Huệ trong Hoàng tộc đều biết.

Năm Càn Long thứ 2 (1737), tháng 3, kim quan của Ung Chính Đế và Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu đều cùng nhập địa cung của Thái lăng (泰陵), thuộc Thanh Tây lăng. Đôn Túc Hoàng quý phi cũng được táng phụ[16] vào địa cung của Thái lăng với Đế-Hậu[17][18].